Cây Gạo Của Người Âm Mp3 - Mời quý thính giả và các bạn nghe truyện ma Cây Gạo Của Người Âm của tác giả Thư Kỳ qua giọng đọc Đình Soạn Bật mí danh sách mẫu tóm tắt truyện Tấm Cắm ngắn gọn nhất giúp bạn có thể kể được truyện Tấm Cám xúc tích và hay nhất chi tiết tại đây Tấm hóa thành cây xoan đào với cành lá xanh tươi che mát cho nhà vua, điều đó thể hiện quyết tâm đấu tranh gìn giữ hạnh Cây Gạo Vong Ám. Giọng đọc: MC Ngọc Lâm. Tác giả: Mạnh Ninh. Truyện ma ngắn. Truyện ma. Áo Liệm Quan Tài. Gả Con Cho Quỷ. Tài Xế Gánh Nghiệp. Bàn Tay Của Quỷ. Cảm nghĩ về truyện Bánh chưng bánh giầy - Bài làm 1. Tết- là ngày lễ cổ truyền của dân tộc, là ngày tất cả những người con đi xa được trở về cùng nhau sum họp bên gia đình bên những nồi bánh chưng đượm khói thơm nồng hay những cánh đào hoa tươi sắc thắm khe khẽ nở trong những ngày tiết trơi lành lạnh. truyện ma. Cây Gạo Thắt Cổ. 00:00. Hiện tại đường truyền internet quốc tế đang gặp vấn đề nên có thể bạn sẽ không nghe được truyện. Mong các bạn hết sức thông cảm. Đừng quên like, share để ủng hộ Ad và Team duy trì và phát triển website nhé. Nếu truyện bị lỗi các . Trình Trung Ngộ là một chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà, nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng nam buôn bán. Chàng thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê rồi đi lại vào chợ Nam Xang 1. Dọc đường, hay gặp một người con gái xinh đẹp, từ Đông thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ theo hầu. Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc. Song đất lạ quê người, biết đâu dò hỏi, chỉ mang một mối tình u uất trong lòng. Một hôm khác, chàng cũng gặp lại, muốn kiếm một lời nói kín đáo để thử khêu gợi, nhưng người con gái đã xốc xiêm rảo bước, và bảo với con hầu gái – Ta lâu nay rượu xuân quá chén, mê mệt nằm dài, hầu nửa năm trời, không lên chơi cầu Liễu Khê lần nào cả, chẳng biết giờ phong cảnh ra sao. Đêm nay nên thăm qua cảnh cũ, để được khuây giải chút tình u uất ở trong lòng, vậy em có đi theo ta không? Trung Ngộ nghe lỏm lấy làm mừng lắm. Tối hôm ấy, chàng đến bên cầu chờ sẵn. Đêm khuya người vắng, quả thấy người con gái cùng ả thị nữ mang theo đến một cây hồ cầm, đi tới đầu cầu, thở dài mà nói rằng – Nước non vẫn nước non nhà, cảnh còn như cũ người đà khác xưa, làm sao khỏi cảm động bùi ngùi cho được! Bèn ngồi tựa vào bức lan can trên cầu, ôm đàn gẩy mấy bài Nam cung, mấy điệu Thu tứ. Một lúc nàng bỏ đàn đứng dậy nói rằng – Giải niềm u uất, muốn mượn tiếng đàn; song điệu cao ý xa, đời làm gì có kẻ tri âm hiểu được cho mình, chẳng bằng về cho sớm còn hơn. Trung Ngộ liền bước rảo tới trước mặt nàng, vái chào mà rằng – Chính tôi là người tri âm mà nương tử đã không biết đấy. Người con gái giật mình nói – Vậy ra chàng cũng ở đây ư? Thiếp đã từng nhiều lần được chàng đoái tới, ơn ấy thật vẫn ghi lòng. Chỉ vì ở đường sá vội vàng, không tiện tỏ bày chung khúc. Giờ nhân đêm vắng, dạo bước nhàn du, không ngờ chàng lại đã đến trước ở đây. Nếu không phải duyên trời, sao lại có sự gặp gỡ may mắn như vậy. Song hạt châu hạt ngọc ở bên, thiếp chẳng khỏi tự xét thấy mình nhơ bẩn, thực thấy làm e thẹn vô cùng. Chàng hỏi họ tên và nhà cửa. Nàng chau mày nói – Thiếp họ Nhị tên Khanh, là cháu gái của ông cụ Hối, một nhà danh giá trong làng. Hai thân mất sớm, cảnh nhà đơn hàn. Mới đây bị người chồng ruồng bỏ, thiếp phải dời ra ở bên ngoài lũy làng. Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa. Hai người bèn đưa nhau xuống dưới thuyền, người con gái sẽ bảo chàng rằng – Thân tàn một mảnh, cách với chết cũng chẳng bao xa. Ngày tháng quạnh hiu, không người săn sóc. Nay dám mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa. Bèn cùng nhau ân ái hết sức thỏa mãn. Nàng có làm hai bài thơ để ghi cuộc hoan lạc như sau Cùng diêm cửu khốn ngọ miên trì, Tu đối tân lang ngữ biệt ly. Ngọc duẩn chỉnh tà châu xuyến tử, Hương la thoát hoán tú hài nhi. Mộng tàn bán chẩm mê hồ điệp, Xuân tận tam canh oán tử quy. Thử khứ vị thù đồng huyệt ước, Hảo tương nhất tử vị tâm tri. Giấc xuân mê mệt chốn hoang liêu, Bỗng sượng sùng thay cuộc ấp yêu. Măng ngọc 2 vuốt ve nghiêng xuyến trạm, Dải là cởi tháo trút hài thêu Mộng tân gối bướm bâng khuâng lạc, Xuân hết cành quyên khắc khoải kêu. Đồng huyệt chưa tròn nguyền ước ấy, Vì nhau một thác sẵn xin liều. Giai kỳ nhẫn phụ thử lương tiêu Túy bão ngân tranh bát phục khiêu… Ngọc yến nhiệm dung trâm trụy kế, Kim thuyền kỳ phạ thúc tiêm yêu. Yên thư đường ngạc hồng do thấp, Hãn thối mai trang bạch vị tiêu. Tảo vãn kết thành loan phượng hữu, Phong thần nguyệt tịch nhiệm chiêu yêu. Đêm đẹp này đâu nỡ bỏ hoài, Ôm tranh nhẹ bấm một đôi bài. Đầu cài én ngọc 3 hình nghiêng chếch, Lưng thắt ve vàng 4 dáng ỏe oai. Đường 5 lúc nở rồi hồng đượm ướt, Mai khi rã hết trắng chưa phai. Phượng loan sớm kết nên đôi lứa, Gió sớm giăng khuya thỏa cợt cười. Trình vốn là lái buôn, biết ít chữ nghĩa nên nàng giải nghĩa rõ ràng cho hiểu. Trung Ngộ rất khen ngợi mà rằng – Văn tài của nàng, không kém gì Dị An 6 ngày xưa. – Người ta sinh ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng nắm đất vàng là hết chuyện. Đời trước những người hay chữ như Ban Cơ, Sái Nữ 7 nay còn gì nữa đâu. Sao bằng ngay trước mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi tốt. Trời gần sáng, nàng từ biệt ra về. Từ đấy đêm nào họ cũng đến với nhau. Trải hơn một tháng, bọn bạn buôn có người biết chuyện bảo với Trung Ngộ rằng – Bác ở chỗ đất khách quê người, nên biết giữ mình thận trọng, xa lánh những sự hiềm nghi. Chớ nên giở nết gió trăng quyến phường hoa liễu. Như người con gái ấy chẳng tường duyên do gốc gác, nếu không là cô ả nũng nịu ở chốn buồng thêu, thì tất cũng dì bé yêu chiều ở nơi gác gấm. Nay bác cứ như vậy, lỡ một sớm cơ sự khó giấu, thanh tích lộ ra, trên thì bị hình pháp lôi thôi, dưới không có họ hàng cứu giúp, bấy giờ thì bác tính thế nào. Chi bằng đã trót gian díu thì nên tìm đến gốc tích nhà cửa, rồi hoặc ruồng bỏ như Xương Lê với nàng Liễu Chi 8hoặc đèo bòng, như Lý Tĩnh với nàng Hồng Phất 9, thế mới là kế vạn toàn được. Trung Ngộ khen phải, rồi một hôm chàng bảo với nàng – Tôi vốn là một người viễn khách, tình cờ kết mối lương duyên, nhưng đối với giai nhân, cửa nhà chưa rõ, tung tích không tường, trong bụng rất lấy làm áy náy. – Nhà thiếp vốn không phải xa xôi là mấy. Nhưng nghĩ chúng mình gặp gỡ, chẳng qua là một cuộc riêng tây. Chỉ thuyền quyên ghen ghét, tai mắt nghi ngờ, đánh vịt mà kinh uyên, đốt lan mà héo huệ. Cho nên thà mang sao mà đến, đội nguyệt mà về, khỏi để mối lo cho lang quân đó thôi. Song Trung Ngộ cố nài; nàng cười mà rằng – Chỉ vì nhà thiếp xấu xa, nên hổ thẹn mà muốn giấu giếm. Nhưng nay chàng đã cố muốn biết, vâng thì thiếp xin đưa về. Rồi đó canh ba, đêm hôm ấy, nhân lúc đêm đen trời tối, hai người cùng đi đến Đông thôn. Khi đến một chỗ, chung quanh có bức hàng rào bằng gióng tre, thỉnh thoảng chen lẫn vào vài khóm lau khô, trong có túp nhà gianh nhỏ lụp sụp, dây bìm leo đầy lên vách và lên mái, nàng trỏ bảo chàng rằng – Đây, nhà của thiếp đây, cứ đẩy cửa vào ngồi chơi để thiếp đi kiếm cái lửa. Trình cúi đầu qua dưới mái gianh, vào tạm ngồi ở chỗ bờ cửa. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi, chàng thoáng thấy một mùi tanh thối khó chịu. Đương kinh ngạc không biết mùi gì, bỗng trong nhà có bóng đèn sáng. Chàng trông vào, thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường mây nhỏ, trên giường để một cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the hồng, dùng ngân sa đề vào mấy chữ “Linh cữu của Nhị Khanh”. Cạnh cữu có người con gái nặn bằng đất tay ôm cây hồ cầm đứng hầu. Trung Ngộ thấy vậy, sởn gai, dựng tóc, tất tả nhảy choàng ra khỏi cái nhà ấy. Song chàng vừa chạy thì người con gái đã cản đường mà bảo – Chàng đã từ xa lại đây, quyết không có lý nào còn trở về nữa. Phương chi trong bài thơ bữa nọ, thiếp chả đã từng lấy cái chết mà hẹn hò nhau. Xin sớm theo nhau đi, cho được thỏa nguyền đồng huyệt. Nằm vò võ một mình như vậy, lẽ đâu nay thiếp lại để cho chàng về. Nói rồi nàng sấn lại nắm vạt áo chàng. Nhưng may vạt áo cũ bở, chàng giật rách mà chạy được thoát; về đến cầu Liễu Khê, hầu như kẻ mất hồn không nói được nữa. Sáng hôm sau nhân đến Đông thôn hỏi thăm, quả có người cháu gái của ông cụ Hối, mới 20 tuổi, chết đã nửa năm, hiện quàn ở ngoài đồng ngay bên cạnh làng. Từ đấy Trung Ngộ sinh ra ốm nặng. Còn Nhị Khanh cũng thường qua lại, có lúc đứng trên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào. Trung Ngộ cũng vẫn thường ứng đáp với nàng và muốn vùng dậy để đi theo. Người trong thuyền phải lấy dây thừng trói lại thì chàng mắng – Chỗ vợ ta ở có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào, ta phải đi theo chứ không thể luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được; can dự gì đến các người mà dám đem dây trói buộc ta thế này. Một đêm, người trong thuyền ngủ say, đến sáng thức dậy thì thấy mất Trung Ngộ. Họ vội đến Đông thôn tìm, thấy chàng đã nằm ôm quan tài mà chết, bèn phải thu liệm chôn ngay ở đấy. Từ đó về sau, phàm những đêm tối trời, người ta thường thấy hai người dắt tay nhau đi dạo, khi thì hát, khi thì khóc. Hai người thường bắt người ta phải khấn cầu lễ bái, hễ hơi không được như ý thì làm tai làm vạ. Người làng đấy không thể chịu được mọi nỗi khổ hại, họ bèn đào mả phá quan tài của chàng, rồi cùng cả hài cốt của nàng, vứt bỏ xuống sông cho trôi theo dòng nước. Trên bờ sông ấy có một cái chùa, chùa có cây gạo rất cổ tương truyền là đã sống được hơn trăm năm. Linh hồn của hai người bèn nương tựa vào cây gạo ấy làm yêu làm quái, hễ ai động đến cành lá cây gạo thì dao gẫy rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được. Trong năm Canh Ngọ 1330 niên hiệu Khai Hựu nhà Trần, có vị đạo nhân một đêm vào nằm ngủ trong cái chùa ấy. Giữa lúc sông quạnh trăng mờ, bốn bề im lặng, đạo nhân thấy một đôi trai gái, thân thể lõa lồ mà cùng nhau cười đùa nô giỡn, một lát, đến gõ thình lình gọi hỏi trong chùa. Đạo nhân cho là đôi trai gái lẳng lơ đêm trăng dắt nhau đi chơi, khinh bỉ cái phẩm cách của họ, nên cứ đóng cửa nằm im, không thèm đánh tiếng. Sáng hôm sau, đạo nhân đem sự việc trông thấy thuật chuyện với một ông già trong thôn mà phàn nàn sao dân phong tồi tệ như vậy. Ông già nói. – Ngài không biết, đó là giống yêu quỷ, chúng đến ở nay trên cây gạo đã mấy năm nay; ước sao có thanh kiếm trừ tà, để trừ cho dân chúng tôi giống yêu quỷ ấy. Đạo nhân trầm ngâm một lúc lâu rồi nói. – Ta vốn lấy việc cứu giúp mọi người làm nhiệm vụ, cái việc mắt ta trông thấy, nếu chẳng đem pháp thủ ra tức là thấy người chết đuối mà không cứu vớt. Rồi đạo nhân vời họp người làng, lập một đàn tràng cúng tế, viết ba đạo bùa, một đạo đóng vào cây gạo, một đạo thả chìm xuống sông, còn một đạo đốt ở giữa trời, đoạn quát to lên rằng – Những tên dâm quỷ, càn rỡ đã lâu, nhờ các thần linh, trừ loài nhơ bẩn, phép không chậm trễ, hỏa tốc phụng hành. Một lúc, mây gió nổi lên đùng đùng, người đứng cách mấy thước không trông thấy nhau, dưới sông thì sóng tung cuồn cuộn vang trời động đất. Sau một hồi, gió lặng mây quang, thấy cây gạo đã bị nhổ bật, cành cây gẫy nát và bị tước như tước dây vậy. Kế nghe thấy trong không có tiếng roi vọt và tiếng kêu khóc. Mọi người ngẩng lên trông có sáu bảy trăm lính đầu trâu gông trói hai người mà dẫn đi. Người làng đem rất nhiều tiền của để tạ ơn vị đạo nhân, nhưng đạo nhân phất áo đi vào non sâu, không lấy một tí gì cả. Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải. Trung Ngộ là một gã lái buôn không có tri thức, không đủ trách vậy. Vị đạo nhân kia vì người trừ hại, công đức lớn lao; nhà bình luận công bằng sau này, phải nên biết đến. Không nên lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị đoan mà dìm mất cái hay, ngõ hầu mới hợp cái ý nghĩa người quân tử trung hậu đối với người khác. * Nguyên văn Mộc miên thụ truyện. 1. Chợ Nam Xang chợ ở huyện Nam Xang tức huyện Lý Nhân, nay thuộc tỉnh Hà Nam. 3. é ngọc chiếc thoa cài đầu chạm hình con chim én. 4. Lưng thắt ve vàng lưng mỹ nhân thon, chẽn lại như lưng con ve. 5. Đường hoa hải đường, thường ví với vẻ đẹp của thiếu nữ. 6. Dị An Lý Thanh Chiếu, vợ của Triệu Minh Thành, Lý Cách Phi, người đất Tế Nam, có tài văn thơ, đặc biệt là thể từ, được coi là một đại thi gia đời Tống. Dị An cư sĩ là tên hiệu, bà có tập Thấu ngọc từ còn truyền ở đời. 7. Ban Cơ tên là Chiêu, em gái Ban Siêu đời Hán, có tài học, triều vua Hòa đế được triệu vào cung để dạy học; các hoàng hậu, quý nhân đều phải thờ làm thầy. Có làm ra 7 thiên Nữ giới và làm tiếp sách Hán thư. Sái nữ là nàng Sái Diệm, con gái Sái Ung đời Hán, có văn tài và hiểu âm luật, làm ra 18 khúc hát Hồ già. 8. Hàn Dũ là một văn hào làm quan đời Đường được phong là Xương Lê bá. Hàn có hai người nàng hầu là Giáng Đào và Liễu Chi. Khi Hàn đi vắng, Liễu Chi bỏ trốn, người nhà đuổi theo bắt về được. Sau Hàn về, chỉ yêu dấu Giáng Đào và ruồng bỏ Liễu Chi. 9. Hồng Phất phất trần đỏ, tên thật là ứng Trần hầu thiếp của Dương Tố đời Đường. Nàng có nhan sắc và hay chữ; khi đứng hầu thường cầm phất trần đỏ nên thành tên. Một lần Lý Tĩnh vào thăm Dương Tố, Hồng Phất đưa mắt nhìn quyến luyến. Đêm đó nàng mặc áo tía, đội mũ trốn đến nhà Lý Tĩnh gõ cửa. Tĩnh mời vào nàng cởi bỏ áo mũ nói “Thiếp là người cầm phất trần đỏ ở nhà họ Dương đây mà, xin đem thân cát đằng nương bóng tùng quân”. Rồi hai người đưa nhau lên Thái Nguyên kết làm vợ chồng. Làng Đông Mộc, những năm đầu thế kỉ 19…. giữa cái nắng hè oi ả của buổi sớm ngày tháng 7. Có tiếng người dân nhốn nháo gọi nhau chạy ra phía đình làng…. “Ông Thôngggg sáng sớm mà đã phơi thóc, rồi đó hử.” Giọng nói chua ngoen ngoét của mụ Nụ vang lên …. Cái con mụ này, chưa thấy người mà đã thấy tiếng, hễ ở đâu trong làng có chuyện gì là ngồi lê mách lẻo được ngay. Ông Thông đang vãi thóc ra sân, nghe thấy tiếng mụ Nụ thì tò mò hỏi “Gì thế mụ béo?? Sáng sớm ngày ra đã có chuyện gì??” Giữa cái nắng vàng của ngày hè chói chang. Mụ Nụ ngồi phịch xuống cái chõng. Mụ vừa đưa cái quạt nan lên phe phẩy cái đống mỡ thịt vừa liếc dọc liếc ngang cong môi kể Truyên ma Ma cây gạo, Cáo cây đề Chap 7 Chùm Chap cuối TG Nhà Văn Bố Láo Art Ma Quỷ Dân Gian Ký … Lý Văn ngả người ra đằng sau, châm một điếu thuốc hút. Nhả ra một đám khỏi mờ dần dần tan vào khoảng không trước mặt. Đường hôm nay sao nhiều ổ gà thế, sóc lên sóc xuống muốn lộn ruột. Thằng phu này kéo gì mà hùng hục như chó, chẳng biết né ổ gà, đá to làm ông ngồi ở trên, mỗi khi bánh xe lăn vào một cái ổ gà, hay nén phải hòn sỏi to thì cả người cả xe, muốn bay hết lên không. Lý Văn thì hãy còn tức lắm, đúng cụ chánh Tì chẳng có lý gì lại bỡn cợt hắn như thế. Ồ vậy đứa nào đưa cho thằng nhỡ gói quà, hay thằng ấy là thằng tù thằng tội nào, của hội kín hội mở nào đó cũng nên. Đã vậy mai ông cứ gô cổ nó lên, dúi cho nó cái án cho thằng ấy đi tù, đúng sai ông mặc kệ. Đang nghĩ ngợi thế thì cái xe hình như chạy dần chậm lại, rồi dừng hẳn anh phu không kéo nữa mà chống mạnh hai càng xuống dưới đất một cái phịch. Lý Văn đã quen thói nạt nộ người ta rồi, dẫu ai thì cũng thế. Làm một ông chánh hay ông lý có quyền quản cả mấy ngàn dân, ai cần gì phải bẩm phải báo, phải van xin lạy lục, phải đồng nọ đồng kia. Ai mà chẳng sinh ra cái thói hách dịch, hay chửi hay đánh người. Ấy là vì người ta có quyền. Lý Văn chỉ mặt anh phu định mắng té tát, nhưng tên phu này nó không quỳ xuống lạy ông như những thằng phu khác. Nó đứng trơ ra nhìn ông, rồi ông lại nhìn nó, rồi ông thấy nó rút từ cái càng xe ra một cái gì sáng loáng. Ánh sáng của kim loại phản vào ánh trăng, như bộ răng vàng của bố Lý Văn phản vào ánh nắng. Trời bỗng tối sầm, nổi sấm ầm ầm, mây đen kéo đến vài hạt mưa rơi tí tách trên đường, rơi cả vào cái nón lá người phu xe đang đội. Dưới ánh chớp của cơn mưa bất chợt ông lý Văn sợ hãi, bàng hoàng nhìn thấy… Ồ một con dao, một con dao to quá, nó đúng là một con dao rồi, lý Văn thấy giọng chửi của mình đã run run, sau cùng nghẹn lại, – ấy nhà bác định làm gì thế !? – làm gì à ???. Làm thế này này, làm thế này này !!!, tao đưa mày về Tây, mà về Tây Trúc mày biết không ?!! Lý Văn chỉ kịp kêu lên có mấy tiếng, rồi mọi thứ lại im lìm… Sáng hôm sau mấy con mụ hàng xén quẩy gánh hàng đi trên đường trơn như mỡ, đêm qua trận mưa ấy như đánh tan cái nóng nực của một mùa hè oi ả, không con cái nhơm nhớp trong những bộ quần áo chua lòm. Thay vào đó khí trời quang đãng, hơi đất, hơi cát hơi của cỏ cây bốc lên thành một mùi gì đó mà hít vào người ta lại thấy thật khoan khoái. Trên cành cậy gạo có một đám quạ đang bu lấy một cái gì bị treo trên ấy. Mấy người đàn bà xua đàn quạ bay lên trời, như một vệt đen hoạ vào cái xanh của mây và của nắng. Khi đàn quạ đã tản đi hết để trơ lại một cái thây người, toàn thân bị lột trần, một bên mặt bị quạ rỉa nát bươm. Hai tay bi trói treo lên một cành, bụng xổ ra những ruột và đen. Nửa khuôn mặt ấy chẳng ai khác, là lý Văn. Một vụ giết người chẳng cần phải nói cũng làm cho cả tổng ấy bàng hoàng. Họ đổ cho một hội kín nào đấy mà họ chỉ nghe người ta nói, chứ kẻ thủ ác thì vẫn biệt tăm. Lý Văn chết rồi thì bao nhiêu đứa khác lại lên thay lại tranh nhau để ngồi vào cái ghế ấy để hà hiếp để bóc lột để cai trị như một tên bạo chúa Nhưng kẻ giết lý Văn là ai hắn ở đâu thì không ai rõ, những nhà điều tra của các quan tây quan ta thì lại càng không rõ. Chỉ có một người là rõ nhất, rõ nhất từng truyện đó là anh Lộ con ông Đồ Cử Nhưng đã kể thì phải có ngọn có ngành như sau Anh Lộ hôm ấy sau khi học xong buổi học cuối, anh theo xe lửa về nhà mà không báo cho ai biết cả. Anh ngân nga hát một điều gì đó, mắt nhìn ra bên ngoài ô cửa của toa tàu, những hàng cây đường xá từ từ chạy ngược lại phía sau. Bên trong toa ấy, toàn một mùi trộn của mồ hôi, thức ăn, gà vịt mùi của một bãi nôn của ai đó vừa mửa ra sàn không ai dọn. Người chen nhau trong ấy may mắn lắm mới có một chỗ ngồi, Lộ thấy mình thật may mắn. Lộ sẽ không báo cho nhà biết, để Lộ được bí mật gặp Chinh tạo cho Chinh một niềm vui nho nhỏ, Lộ cầm cái khăn tay thêu hai con chim đã chụm mỏ vào nhau, lòng mừng khấp khởi. Lộ sẽ vui sướng lắm khi thấy nụ cười của Chinh lúc ấy, Chinh sẽ nhảy cẫng lên bá lên cổ Lộ mà ôm. Lộ muốn học cho xong, rồi ra làm một ông ký lương bảy tám chục đồng Lộ sẽ đón Chinh ra ngoài phố thuê một cái nhà. Sáng chồng đi làm vợ ở nhà khâu vá, nấu ăn, chiều về hai đứa đi dạo phố. Ấy là một cái gì nhỏ nhoi nhưng hạnh phúc mà bao con người mơ ước không có được. Lộ tin là Lộ với Chinh sẽ hạnh phúc Nhưng cuộc đời cho ta niềm tin và hi vọng thật nhiều rồi bất chợt đẩy ta xuống dưới vực sâu một cách thật tàn nhẫn. Lộ đến gốc gạo thấy đèn nhà Chinh còn đương sáng, rồi Lộ nghe có tiếng rên rỉ như khóc. Tiếng ú ớ của một ai đang bị thứ gì nhét vào họng không kêu được, Lộ đạp cửa xông vào Chinh và mẹ Chinh đều đang bị bốn đứa ây làm nhục. Lộ thấy được mặt chúng nó, thằng trương tuần. Và thằng nào nữa kia, lý Văn đang hăng máu đè nghiến lấy Chinh. Hắn đã để ý Chinh lâu lắm. Thấy có người xông vào hai thằng trai em xách cây mã tấu đuổi theo Lộ, Lộ cố hô hào kêu cứu nhưng vô hiệu ở đây cách xóm trong còn xa lắm. Lại bị tiếng gió thổi át đi Lộ bị một thằng chém vào lưng, rồi một nhát nứa vào đầu, Lộ cố hết sức mình nhảy xuống sông bơi. Được một đoạn khá xa Lộ mê man đi rồi không còn biết gì nữa cả, hai đứa kia thấy Lộ chím xuống. Cũng cùng nhau quay lại chỗ lý Văn. Thế rồi kết cục thế nào chắc không còn phải kể làm gì nữa cho đau lòng. Lộ tỉnh dậy thấy mình đã trôi mãi về đâu dạt vào một làng nào đấy. Người đánh cá không có vợ ở gần chỗ đó đưa lộ về lán rịt cho lộ nắm thuốc dấu người đó học được của một ông thầy bán thuốc nam. Lộ ở với người đánh cá ấy, đến khi vết thương đã đóng vẩy, thì lộ nghe tin Chinh chết. Chinh chết rồi, Lộ cũng không còn muốn trở về Hương Tảo nữa, nhưng trong lòng vẫn mang một nỗi uất nghẹn không làm thế nào cho nguôi. Lý Văn tưởng Lộ đã chết rồi, cho người nói vống lên rằng Lộ bỏ học, phiêu bạt mất tích. Nhưng không ngờ Lộ lại về được đây. Lộ bỏ đi chỉ để lại cho người đánh cá ấy 10 đồng bạc Lộ vẫn giữ trong người, rồi Lộ tìm đường về Hương Tảo, lẩn lút sống ở cái bãi bồi đầy những hốc nhưng hang đất có thể trú tại đó dài dài. Nghe tin nhà lý Văn gặp ma, Lộ cũng tin là Chinh hiện về để báo oán. Chỉ còn chút nợ máu, Lộ sẽ trả thay cho Chinh. Sau khi đâm cho thằng trương tuần 16 nhát dao, thì lần này đến lượt lý Văn. Lộ lên tàu đi thẳng vào nam từ đó không còn lần nào Lộ trở về Bắc nữa. Cả nhà Lý Văn sau còn bị ám ảnh nhiều lắm, chỉ thấy một hôm nhà Lý Văn cháy lớn. Trong nhà không còn ai ở đấy cả, cả Hương Tảo không biết họ đi đâu. Chỉ có cụ đẻ ra ông tôi là biết, khi ấy lúa làng đang xấu, mới non nửa tháng đã gặt xong hết rồi, người làng tản đi tứ xứ tìm việc làm. Người bế em, người làm bốc vác, kẻ lại kéo xe… Cụ tôi cùng 3 người nữa đến xem mạn nào lúa còn chưa gặt thì đến gặt thuê. Đi được 4 ngày rồi mà bên này người ta cũng gặt sớm tiền ăn đã tiêu gần hết mà còn chưa được đám nào, cụ tôi xưa nay xách đòn càn đi ăn cơm thiên hạ đã quen. Có khi nước nóng bỏng chân, mà vừa buông hái xuống đã vội vơ lấy bát cơm được trả công cao lắm. Có khi công đã chẳng lấy gì làm cao mà ăn uống cũng khám khổ, cơm một thứ gạo đỏ ăn thấy hôi. Canh thì không có, mà thức ăn toàn một thứ cà nén mặn, mới đắt vào đầu lưỡi mặt đã chun lại, nhăn nhó như sắt ruột. Rồi đến ngày thứ năm, lúc ấy trời đã về chiều. Cụ tôi đến một cái làng vắng tanh, ngoài đường mới chập tối đã không còn bóng ai. Nhìn vào con đường vắng tanh, chỉ thấy có tiếng chó, hay tiếng lách cách của một bụi tre bị gió đưa lay động. Từ trong bụi tre ấy đi ra một bóng người, cả bốn người cụ tôi xem trừng ai cũng đã hơi có phần lạnh gáy. Nhưng chỉ thấy một ả đàn bà quấn khăn mỏ quạ, mặt xem ra cũng có phần nhan sắc. Nhìn mắt có nét quen quen, nhưng cụ tôi chưa nhận được ấy là ai Chẳng nhẽ bốn đứa đàn ông lại sợ một đứa đàn bà, cụ tôi cứ đứng trơ ra ấy, người đàn bà tiến lại gần chỗ 4 người. -các ông đi gắt thuê chăng ?!! -Vâng mợ hãy còn chưa gặt – Nhà cháu hãy còn nhiều lắm, thế các ông lây công những chỗ khác bao nhiêu – Dạ mợ cứ cho anh em chúng tôi mỗi công một đồng, – thôi thế này, nhà cháu hay còn nhiều lúa lắm. Nhưng các nói một đồng chẳng nhẽ các ông lại lấy hẳn một đồng – thôi mợ đã nói thế thì chúng bớt cho mợ một hào. Cứ 9 hào một công mợ có ưng thì chúng tôi gặt – Vâng vậy xin rước các ông về nhà cháu Bốn người cụ tôi theo chân người đàn vào trong một cái nhà to lắm, nhưng bên trong tối om không thấy bóng người nhà hay đứa ở. Chỉ thấy một cái khỉ gì lạnh lạnh, pha vào đó một cái mùi hơi khăn khẳn ở đầu mũi. Người đàn bà ấy kêu bốn người cụ tôi ngồi trải chiếc ngoài hiên, rồi câm con dao nhọn bắt một con gà mang ra cầu ao. – các ông hay nghỉ ngơi chờ nhà cháu làm cơm mời các ông xơi, rồi nhà cháu con có việc nhờ các ông một chút Người đàn bà đi độ một lúc sau mang ra một mâm cơm toàn gà luộc, với hai chai rượu đặt trên mâm. Cụ tôi hay rượu liền ngồi ngay xuống, cả bốn người ăn uống đã nó say mặt đỏ vì rượu. Cụ tôi mới nói – mợ có việc gì sai bảo, để chúng tôi giúp cho Chỉ thấy người đàn bà ấy tháo mấy cái cánh cửa gỗ ở nhà trên rồi gọi cả bốn người ông tôi vào trong ấy. Bên tròn nhà tối om, nhưng vừa mới vào đến nơi, mặt ông tôi tái đi rú lên – trời ơi sao thế này !!! Trên giường nhà ấy bên trong có 4 cái xác chết, 1 đàn bà một đàn ông và hai đứa bé con, mặt họ xám xịt, nằm cả trên giường, màn buông thõng xuống. Hốc mắt đen xì, da thịt quắt queo, miệng há ra như ngước lên mái nhà , người đàn bà quỳ ngay xuống lạy lục van xin -bẩm ông, nhà cháu chẳng may vắn số trời bắt chết cả kia là chồng, con, với mẹ chồng cháu, làng không ai chịu chôn cho. Xin các ông làm phúc lấy bốn cánh cừa này ghép tạm một cỗ áo quan, chôn giùm cho cháu. Ông tôi ngắm nghía người đàn bà ấy hồi lâu rồi như nhận ra điều gì, ông chỉ tay hô lớn Có phải vợ cậu Khiêm, nhà ông lý Văn không ? -Hết- Trích đoạn cuối lấy cảm hứng từ truyện” quái dị của nhà văn Nam Cao, cám ơn các bạn đã theo dõi ! 4/4 Nghe Truyện Nội dung truyện Cây Gạo Thắt Cổ Cây Gạo Thắt Cổ Audio – Mời quý thính giả và các bạn nghe truyện ma Cây Gạo Thắt Cổ của tác giả Mộc Mộc qua giọng đọc Quàng A Tũn. Chúc các bạn nghe truyện vui vẻ Nghe truyện ma Cây Gạo Thắt Cổ Hiện tại đường truyền internet quốc tế đang gặp vấn đề nên có thể bạn sẽ không nghe được truyện. Mong các bạn hết sức thông cảm. Đừng quên like, share để ủng hộ Ad và Team duy trì và phát triển website nhé. Nếu truyện bị lỗi các bạn vui lòng comment lại để Ad fix nhé. Chúc các bạn nghe truyện vui Luận Nghe truyện ma qua giọng đọc Quàng A Tũn Xem thêm Nghe thêm truyện ma khác Nội dung truyện Cây gạo nằm sát bên bến đò làng Hương Tảo có cách đây từ những năm Minh Mệnh thứ 5 thứ 6. Những người biết được nó có từ khi nào thì chắc giờ đã cả rồi. Ở đấy có một quán nhỏ của người đàn bà goá, bày ra đó vài thức bánh trái đơn sơ, một tích nước vối dăm cái chén con. Treo trên kèo vài cái bánh đa làm bằng thức gạo kém, cứng mà lại dai chứ không giòn. Đủ đế thấy, đây không phải một vùng giàu có gì cho cam. Đàn bà làng ấy đi mò cua bắt ốc, đàn ông đi bẫy chuột, đánh dậm. Thi thoảng họ ghé vào quán người đàn bà goá uống vài xu nước vối, rồi lại tất tả đi làm như còn đương bận rộn lắm. Người đàn bà goá ấy có một đứa con gái năm nay độ 16, đó là Chinh Chinh lớn lên khi bố cô còn đang là một ông quan viên nhà có của hẳn hoi, chứ không phải con một bà goá bán hàng nước, phải dựng tạm túp lều dưới gốc gạo. Chinh lên năm thì ông Phái bố cô còn đương có vài mẫu ruộng, cho cấy rẽ. Nhà còn Trâu cho đi cày mướn, chẳng phải lo đến miếng cơm tẻ, ăn với giò. Nhà mái ngói sơn son, sân gạch, áo cá. Đều chẳng thiếu thứ gì. Nhưng ông Phái hãy còn thấy thiếu ấy là ông còn chưa là một ông Lý, chưa có tí công danh nào cho tổ tiên dòng họ. Cũng Chính vì cái danh hão để ra đường người ta gọi là ông Lý ấy mà đến nỗi gia đình tan nát. Xem thêm

truyện ma cây gạo